Cùng với Đào, Mai được xem là một cây
hoa biểu tượng
cho mùa Xuân và là một cây hoa ..không thể thiếu để chưng trong nhà
, bày bên bàn thờ mỗi khi Tết đến (nhất là tại miền Nam
Việt Nam)..
Hoa mai được xếp hạng đứng đầu trong 'tứ hữu' : mai, lan,
cúc, trúc.. bốn loại cây được
xem là quý, là 'bạn' với Người và cũng được các văn nhân, nghệ sĩ vịnh tho, vẽ họa nhiều
nhất..
Hoa mai thuần khiết và thanh tân đã được dùng làm biểu tượng cho người quân
tử, ngoại diện khắc khổ, nhưng tâm hồn sâu sắc, có đôi chút lãng mạn..Cao bá Quát đã từng viết :' Nhất thân..đề thử bái mai hoa'
(Đời người, chỉ cúi đầu trước ..hoa Mai..)
Thi ca Việt Nam đã có rất nhiều bài tho vịnh hoa Mai và
cành Mai như
' Hoa mai bạc vì trăng tỏ
Bóng trúc thưa bởi gió lay..'
Bóng trúc thưa bởi gió lay..'
(Nguyễn bỉnh Khiêm)
'Mai cốt cách, tuyết tinh thần..'
(Nguyễn Du)
' Trung hiếu vẹn tròn hai khôi ngọc..
Thanh cao phô trắng một cành ..mai'
(Tản Đà: Tự vịnh)
'Em đứng nương mình dưới khóm ..mai
Vịn nhành sương động..lê hoa rơi..'
'Em đứng nương mình dưới khóm ..mai
Vịn nhành sương động..lê hoa rơi..'
(Thế Lữ)
và
' Gợn trắng ngàn mai thoảng gió xuân
Màu trinh e lê gió ân cần..'
Màu trinh e lê gió ân cần..'
( Vũ hoàng Chương : Thơ Say)
Văn chương và nghệ thuật hội họa của Trung Hoa đã xem Mai
như biễu tượng của sự cao quý, trân trọng :
Các
nhà danh họa như Trọng Nhân đã vẽ mai
bằng mực nước,
để lại những bức
tranh đen trắng tuyệt đẹp ; vương Điện (thời Minh) chuyên vẽ về Mai Tây Hồ (Hàng châu).. và trong lụa Hàng châu cũng tiềm ẩn những cành Mai..; Thạch Đào luôn có Mai trong các bức vẽ truyền
thần và đặc biệt
nhất có lẽ là Tống huy Tôn (1108-1135), một nhà Vua..ham chơi đến mất cả ngai vàng.. Vua chỉ mê nhan sắc và..hoa Mai, đã để lại bức
tranh độc đáo 'Két ngũ sắc đậu trên cành Mai', được xem là báu vật và hiện được trưng
bày tại Viện Bảo Tàng Nghệ thuật Boston..như một biểu tượng
cho nghệ thuật hội
họa cổ điển Trung Hoa.
Các
thi sĩ Trung Hoa đã có những bài thơ tuyệt tác như :
'.. Mạc vị xuân tàn, hoa lạc tận
Tiền đình tạc dạ nhất chi mai..'
(Mãn Giác Thiền sư)
( Chớ ngại xuân tàn hoa rụng hết.
Đêm qua, sân trước một cành mai)
hay
' Kim hạ hà nhân xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt..lạc mai hoa'
Giang thành ngũ nguyệt..lạc mai hoa'
và biết
bao bài khác nữa..
Về phương diện thực vật và dược học, tên gọi dành cho Mai như Mai vàng, Mai Tứ quý, Mai chấm thủy..
Bạch
mai.. bao gồm nhiều cây thuộc ba gia đình thực vật khác nhau .
mai.. bao gồm nhiều cây thuộc ba gia đình thực vật khác nhau .
1- Mai vàng = Huỳnh mai
Tên khoa học : Ochna integerrima, họ thực vật
Ochnaceae.
Còn được gọi là Lạp mai (lạp hay sáp ong, màu vàng tươi của hoa được so sánh với màu sáp, có thuyết
cho rằng.. lạp nguyệt là tháng chạp,
và lạp mai là loại mai cho hoa nở vào một lần vào tháng chạp)
Đây là cây hoa đặc thù, biểu
tượng cho Tết tại miền
Nam Việt Nam.
Cây mọc
hoang dại trong các khu rừng miền Trung và miền Nam Việt Nam, rất
dễ trồng từ Quảng Trị đến
Cà Mâu. Vùng biên giới Lào-Việt (Thường
đức- Quảng Nam) có những rừng mai rất lớn.
Mai
vàng được xem là loài cây của Ấn độ, Miến
điện, Bán đảo Mã lai và Đông dương.. cây thích hợp với các vùng rừng còi và rừng thưa, ẩm ở cao
độ dưới 1200m
Sách sử
Việt ghi chép, thời Đường người
Việt tại Giao châu đã phài tiến cống cho Tàu cây Mai vàng vào mỗi dịp
Tết (?)
Cây
thuộc loại tiểu mộc,
trung bình, cao 3-7 m, phân cành nhánh thưa, dài. Lá đơn không lông, mọc
cách, màu xanh nhạt bóng, mềm, mép
lá có răng cua nhỏ. Hoa mọc thành cụm , tạo chùm nhỏ ở nách lá, có cuống ngắn. Hoa có 5 cánh đài màu xanh bóng, không khép kín để che nụ. Tràng hoa mỏng từ 5-10
màu vàng tươi (hiện nay các nhà vườn đã tạo được nhiều
giống mai có hoa có đến 20 cánh tràng), dễ rụng . Hoa có nhiều nhị, bầu hoa có 3-10 múi, mỗi múi là một noãn. Quả thuộc loại hạch quả.. Cây ra hoa trong các tháng 1-4
Tại Việt
Nam còn có loài Mai vàng thơm (Ouratea lobopetala, họ Ochnaceae) , mọc thành bụi,
hoa vàng rất thơm, thường gặp tại các tỉnh miền Trung.
Mai vàng ít được sử dụng làm
dược liệu, tuy nhiên vỏ thân cũng được dùng làm thuốc bổ, ngâm rượu để trợ giúp
tiêu hóa. Lá non được dùng ăn sống thay rau tại Lào và Kampuchea.
Những nghiên cứu mới tại ĐH
Chulakongkorn (Bangkok, Thái Lan) ghi nhận trong vỏ non của Mai vàng có những
flavonoids như 6''-hydro xylophirone B và beta-glucoside của chất này..(Journal
of Natural Products Số 65-2000); trong lá cũng có nhiều flavonoids khác gọi
chung dưới tên ochnaflavones (Phytochemistry Sô' 56-2001).
Nghệ
thuật thưởng Mai đón Tết :
Người yêu hoa, nhất là tại
miền Nam Việt Nam, vẫn thích được thưởng lãm một cành mai nở đẹp và không héo rụng
trong trọn 3 ngày Tết. Phương thức chăm sóc Mai đã được nâng lên hàng nghệ thuật
cầu kỳ, muốn có cành Mai vừa ý phải qua nhiều công đoạn như :
■ Trẩy
lá Mai : Khoảng từ 14-15 tháng Chạp (Âm lịch) đã cần trẩy lá những cành nào
chua ra lộc ( nụ con chưa xuất hiện tại các nách lá); từ 18-19 cần trẩy lá những
cành đã ra lộc. Ngày 23, các cành mai cần
bung mày , để lộ các chùm nụ nhỏ.
■ Thúc
Mai : Những cây Mai ra nụ chậm, nụ hoa còn quá nhỏ : cần thúc cho mai nở bàng
phân urê ( 5 gram trong 20 lít nước)
- Nếu nụ mai chưa lớn bằng hạt đậu xanh vào ngày 25 : cần tưới ngày 2
lần.
- Nếu nụ hoa không bằng hạt bắp vào ngảy 27, cần tưới ngày 3 lần.
- Nếu nụ chưa bằng hạt đậu phọng vào ngày 29, cần tưới ngày 4 lần.
■ Mai cắt cành : Nên cắt
cành Mai vào buôì chiều, cắt xong ngâm ngay vào nước. Ngày hôm sau nên hơ gốc cắt
đến cháy xém, đến khi nụ hoa rũ xuống, rồi đem ngâm nước, phơi sương qua đêm..
Sáng hôm sau, cành sẽ phục hồi..
Nếu Mai chậm nở (đến ngày 30, cành cắm
bình, chưa có nụ) có thể dùng nước pha chế theo 70% nước lạnh + 30% nước sôi, để
cắm cành , giúp kích thích cành mau tạo nụ hoa.. ( theo Lê thanh Hùng, Viet
Tide Xuân Giáp Thân)
2- Mai Tứ
Quí = Mai đỏ
Tên khoa học : Ochna atropurpurea, họ thực vật Ochnaceae
Cây thuộc loại tiểu mộc, cao 1-5m. Thân ít phân nhánh, tán thưa
nhưng lá mọc xum xuê. Cành non màu hung đỏ. Lá cứng, dày, hình bầu dục, màu
xanh bóng; mép lá có răng cưa không đều, răng có thể có 1 gai nhọn nhỏ. Hoa mọc
thành cụm, tuy ít hoa. Hoa nhỏ lúc đầu màu vàng, có 5 cánh đài màu xanh, cứng,
sau đó hoa chuyển sang màu đỏ tía. Tràng hoa mau rụng. Hoa có nhiều nhị. Quả có
nhân cứng xếp từ 1 đến 5 chiếc không cuống quanh đế hoa. Quả ở lại khá bền trên
cây.
Mai Tứ Quí được ưa chuộng do
hoa đẹp và quả khá đặc sắc. Được gọi là 'tứ quí' (bốn mùa) vì cây có quả gần
như quanh năm..
Tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ có
loài Ochna serrulata (Ochna multiflora) có những đặc tính tương tự như Mai Tứ
Quí Việt Nam. Cây được gọi là Bird's eye bush hay Mickey mouse plant. Cây mọc
thành bụi cao từ 4-8 ft. Lá thuôn dài, cở 2.5-7.5 cm, bóng, mép có răng cưa đều,
mùa xuân màu đồng nhạt, sau đó chuyển sang xanh đậm. Hoa nở sớm vào mùa hè, nhỏ.
Khi cánh tràng màu vàng rụng, cánh đài chuyển sang màu đỏ, rồi sau đó 5 hay 6
quả nhỏ màu xanh nhô lên từ vùng trung tâm màu đỏ, và quả đôì sang màu đen,
tương phản với cánh đài vẫn giữ màu đỏ (lúc này hoa có dạng mắt hay tai của chuột)
Tên khoa học : VVrightia Ireliogiosa,
thuộc họ thực vật pocynaceae
Cây có nguồn gốc tại Đông
Nam Á, được trồng làm cây cảnh từ lâu đời tại miền Nam Việt Nam.
Cây thân mộc, xù xì, phân
nhiều cành nhỏ, mảnh có lông mềm, dễ uốn và tỉa. Lá mỏng, hình thuôn, hay trái
soan nhọn ở đỉnh, gần như không cuống, màu xanh bóng, dài 3-6 cm, rộng 1-2.5 cm
. Hoa mọc thành cụm, dạng xim thưa. Hoa nhỏ màu trắng có cuống dài mọc chúc xuống,
có mùi hương rất thơm, thoảng nhẹ mùi hoa nhài. Mỗi hoa cho một quả thuộc loại
quả đại đôi màu xanh đen, có khía dọc, dạng dài hẹp 10-12 cm, rộng 3-4 mm cũng
mọc buông thắng xuống. Hạt thuôn dài , cô 6 mm, có lông mềm.
Cây có thể được trồng bằng hạt
hay chiết cành, mọc rất khoẻ, có thể bứng gốc để vài ngày trồng lại vẫn được và
chịu được cả hạn lẫn úng.
Các nhà vườn đã tạo được một
chủng có lá nhỏ để trồng trong chậu : Cẩm mai (Wrightia religiosa var.
microphylla).
Cây ít có giá trị về mặt dược liệu, tuy
nhiên tại Kampuchea, hoa được dùng ướp làm nước phép tại các Chùa.
4- Mai trắng =Bạch mai
Tên
khoa học :
Prunus
mume, họ thực vật Rosaceae.
Đây
là cây Mơ Nhật= Japanese apricot.
Cây
có nguồn gốc từ Nhật, được trồng khá rộng rãi tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam để
làm cây cảnh, cắt cành chưng trong bình vào dịp Tết.
Cây
thuộc loại tiểu mộc, cao 4-6 m. Vỏ thân màu xám hay xanh lục nhạt, thân phân
nhánh ngang nhiều, mảnh, vươn dài, xần xùi và dễ uốn.
Lá
hình bầu dục hay trái xoan rộng, có cuống dài có răng nhỏ , đều, có lông xám.
Hoa mọc đơn độc, có cuống rất ngắn. Tràng hoa mảu trắng hay hồng nhạt, dạng bầu dục, mềm mại. Hoa có mùi thơm thường xuất hiện trước lá. Quả
hình cầu, 2-3 cm, màu vàng xanh trong có hạch cứng
Có
chủng rất đặc biệt : P. mume var albo plena cho hoa có cánh kép, nụ lúc đầu hồng
nhạt sau đó chuyển sang màu trắng rất đẹp.
Bạch
mai, tuy là loại hoa quý và hiếm
tại miền Nam Việt nam, nhưng rất dể tìm tại
Hoa Kỳ, cây được gọi là Japanese flowering
apricot. Tại California có những
giống cho hoa rất đẹp như :
■
'Rosemary Clarke' : Hoa kép màu trắng với cánh đài màu đỏ. Hoa nở rộ vào dịp đầu
năm Dương lịch..
■
'Bonita' : Hoa gần như kép màu hồng đỏ
■
'Peggy Clarke' : hoa kép, hồng xạm, nhụy rất dài, cánh đài màu đỏ.
■ 'W.B Clarke' : Hoa kép màu hồng , cây mọc rũ..
Dược tính của Mai trắng :
Bạch mai được
xem là một vị thuốc của Dược học cổ truyền Trung Hoa và Nhật, tuy nhiên tại Nhật đã có nhiều nghiên cứu
khoa học đáng chú ý về các hoạt
chất của Bạch mai.
Bạch mai trong Dược học cổ truyền :
Từ Bạch mai, Đông Y tạo được 2 vị thuốc :
Bạch mai hoa (Pai-mei hua) : Bàn thảo cương mục còn gọi là Lu-o-mei. Vị thuốc là nụ hoa, thu hái khi hoa mới hé nụ, chưa nở hắn.
Bạch-mai
hoa được xem là có vị chua/chát, tính bình , tác động vào các kinh mạch thuộc Can và Phế : có tác dụng 'khai uất hòa trung' Bạch- mai hoa làm dịu được 'Nhiệt Khí' tại
Can, tan đởm đọng.. được dùng để trị đau vùng thượng vị do 'Can uất', ăn mất ngon hay choáng váng, chóng mặt. Liều dùng 2.4 đến 4.5 gram mỗi
ngày.
Ô
mai (Wù mei) : Ô-mai được ghi
chép trong 'Thần nông bản thảo kinh' và được chế biến từ quả khi còn xanh, bỏ hột và hun khói đến
khi khô. Màu của quả sẽ đổi thành đen để được gọi là Ô-mai.
Nhật
dược (Kempo) gọi vị thuốc là
Ubai.
Tại
Trung Hoa, vị thuốc được chế biến từ quả thu hái vào
tháng 5 từ các cây trồng tại Tứ Xuyên, Triết
Giang, Phúc kiến..
Ô-mai
có khả năng :
-
Ngăn chặn sự thất thoát của Phế 'Khí', làm ngưng ho (chỉ khái), trị được
các bệnh ho kinh niên do 'Phế hư',
thường được phối hợp với Hạnh
nhân= Xing ren (Semen Pruni Armeniacae), Bán-hạ= ban-xia (rhizoma
Pinelliae Ternateae) và Anh túc xác= Ying-su-ke (vỏ quả
thuốc phiện = Pericarpium Papaveris Somniferi).
- Tác động trên ruột, giúp ngưng tiêu chay : trị
được các chứng tiêu chay kinh niên khó cầm và cả khi có máu trong phân, kiết lỵ. Có thể phối hợp với
Hoàng liên = Huang lian (Rhizoma coptidis) và Hoàng cầm= Huang qin (Radix Scutellariae Baicalensis) để
trị tiêu chay , kiết do 'Nhiệt-Thấp';
sự phối hợp này cũng
dùng để trị ho khan, khát khô họng do các chứng 'nội
nhiệt' gây ra do loạn tân dịch vì kiết
kinh niên.
-
Tái tại 'tân dịch' và trị 'tiêu khát' : trị
'tiêu khát' (tiểu đường) do 'Nhiệt suy' chung với 'Khí và Âm suy', dùng phối hợp
với Mạch môn đông = Mai-men dong (Tuber Ophiopogonis Japonici), Thiên hoa phấn
=Tian hua fen (Radix Trichoxanthis Kirilowii) và Cát căn (Rể sắn dây)= Gegen
(Radix Puerariae) . Đây là một phương thức trị tiểu đường của Đông dược.
-Tống xuất giun-lãi, làm giảm đau. Trị đau bụng và buồn
nôn do sán- lải. Thường phối hợp với Bìng lang (hạt cau) = Bing-lang (Se men
Areca catechu)
Cầm máu : trị phân có máu, và xuất huyết tử cung trong
các chứng 'huyết nhược' gồm cả khô miệng,
lở miệng và 'táo' khát. Thường phối
hợp với Đương quy=Dang gui (Radix Angelicae Sinensis), Bạch
thược =Bai zhao (Radix Paeoniae
Lactiflorae) và A giao=E-jiao (Gelatinum Corii)
Những nghiên cứu khoa học về Bạch mai :
Đa số các nghiên cứu về Bạch mai được thực hiện tại Nhật
và Trung Hoa.
Thành phần hóa học :
- Hoa : chúa
các flavonoids, các flavonol oligoglycosides loại rutin phức tạp, các đường hữu
cơ loại sucrose polyacylated như prunose I và II..
- Hat : chứa
các hợp chất phức tạp loại polysaccharides (bao gồm các đường hữu cơ như
arabinose, xylose, rhamnose, galactose, galac turonic acid..), các men loại
aminopeptidase.., glucosides cyanogenic như prunasin, amygdalin..
- Quá có nhiều acid hữu cơ như malic, citric, tartaric, succinic acid..,
vitamins, tannic acid, ceryl alcohol, sterols như beta-sitosterol..,
terpenes.., furfural như mumeferal.
Các kết quả nghiên cứu :
- Hoat tính của aminopeptidase trích từ hạt Prunus mume (Journal
of Biochemistry (Tokyo) So 89 (Jan), 1981) .
Aminopeptidase, ly trích , phân đoạn bang ammonium sulfate và tinh khiết hóa
qua sắc ký, lọc bằng gel, từ P. mume..có trọng lượng phân tử khoảng 56,000 có khà năng thủy
giải một số các hợp chất có những
nhóm amino-acid tự do, nhất là các hợp chất có dây nhánh chứa các nhóm
hydrophobic. Men này bị ức chế bởi p- chloromercuribenzoate và các kim loại nặng..
- Hoat tính của các polysaccharides trích từ hạt Prunus mume (Biology
and
Pharmacy Bulletin Sô' 17-1994). Các phần polysac charides trích được từ P. mume qua các dung môi như nước lạnh,
nước nóng, dung dịch sodium hydroxyde.. có những hoạt tính sinh học
như ức chế biến chủng gen, kích ứng
các hoạt động miễn nhiễm, kích ứng tiến trình tạo cục đông trong huyết thanh..
- Hoat tính trên đô nhớt của
máu (nơi người) (Life Science
Sô' 27 (Dec)-2002). Nghiên cứu dùng bainiku-ekisu, nước
ép cô đặc từ quả Prunus mume ghi nhận
nước ép này có tác dụng bảo vệ Hệ
Tim-mạch do các hoạt động chống oxy-hóa và ức chế sự kích hoạt men kinase, ức
chế sư chuyển hoạt thụ thể EGF gây ra do Angiotensin II.
- Tác dung
kháng sinh : Nưóc sắc quả P. mume cho thấy có các hoạt tính ức chế 'in
vitro' chống lại các chủng vi trùng như Staphylo coccus (kể cả S.
aureus), Streptococcus pneumoniae, Corynebacte rium diphteriae, Pseudomonas
aeruginosa, Salmonella typhi, Shigella sonnei.. Hoạt tính này có lẽ do ỡ tính
acid của nước sắc
.
- Tác dung tri kiết lv : Nưóc
trích từ P. mume, và Cỏ cú được dùng trị 50 trường họp kiết lỵ do ký
sinh trùng amib.. 48 trường họp khỏi
bệnh sau 3 ngày (tất cả các
triệu chứng như nóng
sốt, buồn nôn, ói mửa, đau bụng.. đều được
trị khỏi) (Dan Bensky-Chinese Herbal
Medicine Materia Medica).
- Tác dung tri giun sán : Nước sắc P. mume rất hữu hiệu đễ trị
giun- sán. 20 trường họp giun móc đã được thử nghiệm
, cho uống trong 5-23 ngày. Khi thử
phân để kiểm soát 14 trường họp âm tính hoàn toàn.Hoạt tính này do ở
tannic acid và họp chất prudomenus trong quả (Kee Chang Huang- The Pharmacoly of Chinese
Herbs)
Bạch mai trong dinh dưỡng và dược học dân gian :
Dược học dân gian :
Quả Bạch mai, không ăn tưoi được
vì vị chua và chát, nhưng được
dùng trong dân gian để trị một số
bệnh
như :
- Nóng trong người, khát nước nhiều, ăn không tiêu :Dùng 2 quả tươi hay 1 quả mai muối, nghiền nát, thêm đường.. đổ nước sôi vào, và uống khi nguội (loại nước..xí mụi).
- Một số bệnh ngoài da :
- Mụn nhọt : Lấy ô-mai hun khói, sao trên nồi đất
đến khi vỏ ngoài cháy đen, tán thành bột và rắc trên mụn lở.
- Nấm
ăn chân : Dùng 3 quả tươi, hay 2 quả ô-mai
muối, nghiền nát; thêm 3 gram vỏ lựu. Sắc chung và rửa chân ngày 3-4 lần.
- Mụn cóc, mụn chai : Dùng 250 gram ô mai hun khói, nấu trong nước đến chín, bỏ nước, bỏ hột..cô đặc nước đến khi thành
khối nhão, thêm chút muối và giấm.
Đắp mỗi ngày vào mụn cóc, mụn chai..
- Vảy nến (Psoriasis) : Dùng 250 gram ô-mai
hun khói, thêm nước, chưng đến khi loại bỏ được hột, cô đặc thành khối nhão..uống mỗi
ngày 3 lần, mỗi lần 9 gram. Có thể đắp
thêm vào vết thương.
Các chế phẩm từ Bạch mai tại Nhật :
Tại
Nhật, quả Bạch mai hay Ume , không thể ăn
tươi do gây ra khó chịu cho bao tử vì chứa prussic
acid, được chế biến thành nhiều
thành phẩm nổi tiếng trên thế giới như Umeboshi (bạch mai muối
và bạch môi hun khói đến khô), mứt, Umeshu (rượu bạch mai)
Tài liệu sử dụng :
■ Thuốc Nam trên đất Mỹ (Tập
3)
■ Chinese
Herbal Medicine Materia Medica (D. Bensky)
■ Whole
Food Companion ( Dianne Onstad)
■ Oriental
Materia Medica (Hsu)
■ Fruits
as Medicine ( Dai Yin-fang)
■ Sunset
Western Garden Book
0 comments:
Post a Comment