Ngày nay, tại Hoa Kỳ..chắc
ít người biết rằng.. Đào mọc khắp nơi, đủ mọi loại hoa đơn, hoa kép và quả đào
(peach) bán đầy chợ lại là ..từ cây đào 'quý' và hiếm tại Việt Nam..
Tên gọi của Đào có thể gây
nhiều nhầm lẫn vì trong tiếng Việt có khá nhiều loại đào như Hồ đào (là
câyJuglans regia), Dưong đào (cây Kiwi), Đào lộn hột (cây điều), đào Kim cưong
(sim)-.nhưng thật ra, ngay đối với những nhà thực vật và những nhà dược học..việc
phân biệt các loại đào cũng thật rắc rối vì giá trị dinh dưỡng cũng như tác dụng
chữa bệnh của mỗi loài..cũng khác nhau..
Những cây Đào đều thuộc chi
thực vật Prunus, gia đình Rosaceae . Prunus được chia thành 2
nhóm chính :
■ Nhóm cho quả ăn được : bao gồm các cây Đào (peach,
nectarine), Hạnh nhân (almond), MO (apricot), Mận (Plum, Prune)..Cherry.. Cây
Đào Việt Nam = Prunus persica ) thuộc nhóm peach này..
■ Nhóm
cho hoa làm cảnh . Nhóm này lại chia thêm thành 2 nhóm phụ : nhóm phụ chỉ trồng
làm cảnh, lá xanh quanh năm, hoa nở rất đẹp, trồng ven đường, bờ rào..; và nhóm
phụ vừa cho hoa lẫn quả.. (Cây mai trắng= Japanese Flowering plum Prunus mume
thuộc nhóm phụ này). Cây Anh Đào Nhât= Prunus cerasoides cũng có thể được xếp
trong nhóm này..
Cây Đào Việt Nam : Prunus persica =
P. vulgaris
Cây được xem là có nguồn gốc
từ Trung Hoa, Mông cổ, từ hôn 2000 năm trước và sau đó được trồng tại nhiều nôi
trên thế giới để lấy quả
(peach) ăn.. Cây có hoa đẹp, nở vào đầu mùa Xuân nên rất được ưa chuộng tại Việt
Nam, cắt cành cắm chưng ngày Tết Nguyên đán..
Đào đã được ghi nhận trong
sách vở và văn chưong Trung Hoa từ năm 550 trước Tây lịch và được dùng làm biểu
tượng cho sự Trường sinh, bất tử. Thực phẩm chính của 'bát Tiên' trong truyện
Tàu chính là Đào. Đào đã được Khổng Tử ghi trong kinh sách từ thế kỷ thứ 5 (trước
Tây Lịch).
Truyện Tây Du Ký có kể về
Tôn ngộ Không lén vào vườn đào của Tây Vuông Mau, ăn trộm đào tiên, loại cây chỉ
sinh quả 3000 năm một lần và chỉ dành cho Ngọc Hoàng thưởng lãm !
Thi ca Trung Hoa đã có rất
nhiều tác phẩm ca tụng hoa Đào như : '..Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y
cựu tiếu đông phong..' (Thôi Hộ)
Đào đã theo chân các đoàn
thưong buôn, lữ hành từ Trung Hoa đến Ấn độ rồi Ba Tư và phát triển mạnh tại xứ
này.. Khi La Mã xâm chiếm Ba tư, đào được đặt cho tên là Malus persica= 'Persia
apples'. Vua Claudius đưa Đào về trồng tại Hy lạp và rồi khắp Âu châu (Pháp là
quốc gia Âu châu trồng nhiều Đào nhất) .
Người Tây ban Nha đưa đào
vào Mexico cách đây khoảng 400 năm, và sau đó cũng theo chân họ đến với Florida
vào thế kỷ 16. Đào được thuần hóa, và mọc hoang rất mạnh khắp Mexico, Nam và
Đông Nam Hoa Kỳ, biến đổi để có tên là 'Indian peaches'.. và các nhà thực vật đã
từng nhầm khi cho rằng Đào có nguồn gốc từ Tân lục địa. Những giống Đào đầu
tiên cho quả có thịt màu đỏ, dính với hột như Crawford, Oldmixon.. rồi đến thời
Nội chiến, đào đìa phưong bắt đầu được cho lai tạo với những giống mới du nhập
từ Trung Hoa. Năm 1850, Charles Downing đã lai tạo Đào địa phưong với giống
'Cling' của Trung Hoa để tạo được 2 giống đặc biệt rất nổi tiếng 'Elberta',
Redhaven..những giống này hiện vẫn rất được ưa chuộng và ngày nay đã có đến hôn
400 chủng loại đào khác nhau.
Hiện nay giống Đào cho thịt
màu trắng (white-fleshed) đang rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ, và một giống Đào
khác cho quả 'dẹp' hình dạng như bánh doghnut cũng đang được phát triển ( dựa
theo cách ăn của các vị Vua Tàu, có thể dùng tay cầm quả để ăn phần thịt quanh
hột mà không phải..cắn cả quả). Các nhà trồng tỉa tại Texas, Georgia, New
Jersey,
Florida đã nghĩ được phưong
thức trồng các giống cho quả tuy chín nhưng vẫn đủ cứng để dễ thu hoạch, chuyên
chở và phân phối mà không bị hư hại..
(Đào Nectarine : Tên
nectarine do người Anh đặt ra vào giữa thế kỷ 17 để phân biệt nectarine và
peach, cho rằng nectarine là một trái cây riêng, hay là lai tạo giữa đào và mận
(plum), nhưng thật sự chỉ là sự biến dạng gen của Đào. Trước đây nectarine..được
nhập vào Hoa Kỳ từ Âu châu nhưng đến giữa thập niên 1940-1950, Fred Anderson tại
California đã tạo được nhiều giống nectarine có giá trị thưong mãi cao và Nectarine
trở thành một cây ăn trái đặc biệt cho California..hiện có khoảng 150 giống
nectarine)
Đào (peach) và Nectarine đều
là Prunus persica (Nectarine có tên khoa học là Prunus pérsica var. nucipersica
hay var. nectarina) , chỉ khác biệt nhau ở 1 gene (Peach có mang gen nên vỏ có
lông.. còn nectarine thiếu gen này nên da láng hôn)
Hiện nay , tại Hoa Kỳ, Đào
là loại trái cây được sản xuất với số lượng khá cao, đứng vào hàng thứ ba, chỉ
sau Táo và Cam. Georgia hiện là 'thủ đô' sản xuất Đào..
Đặc tính thực vật
:
Cây thuộc loại tiểu mộc, cao
8-10 m, mọc lâu năm. Thân nhẵn có vỏ màu nâu-hồng hay xám, phân cành dài và nhiều,
mềm nhẵn dễ uốn. Lá hình mũi giáo hay bầu dục, hẹp, dài 8-15 cm , rộng 2-3 cm,
thuôn ở đầu, mép lá có răng cưa nhỏ, đều, lá màu xanh lục xạm hay nhạt tùy giống;
cuống mảnh. Hoa màu hồng, mọc đôn độc, nở
cùng một lúc với
chồi lá; hoa hầu như không có cuống. Các cánh đài họp ở gốc hình chuông. Nhị
khá nhiều dài bằng cánh hoa. Quả thuộc loại hạch, hình cầu, đường kính 50-70 mm
có một rãnh bên khá rõ, phủ lông tơ mịn, khi chín màu đỏ, mùi thơm dịu, vị ngọt..
Đào, cây hoa
ngày Tết :
Truyền thống Việt Nam đã xem
việc trồng đào và thương ngoạn đào vào dịp Tết Nguyên đán là một nghệ thuật đặc
biệt..Tỉa đào, bóc vỏ, cắt ngọn..để có cành đào nở hoa đúng ngày Tết đòi hỏi
khá nhiều công đoạn và mỗi công đoạn cũng rất công phu chưa kể đến tuốt lá, xem
nụ để hãm khi cần hay thúc khi hoa nở muộn..
Đào được chia thành nhiểu loại
khác nhau :
■ Đào phai : Hoa màu hồng, lá màu xanh nhạt..
■ Đào
bạch : Hoa thưa, màu trắng..
■ Đào quả : Hoa hồng nhạt, cánh đơn, nhỏ..
■ Đào bích : được cho là đẹp nhất : hoa màu đỏ xạm, dày đặc,
nở sát nhau, cánh kép. Lá màu xanh đậm (Đây là giống Prunus persica var.
camelliaflora).
Tại các Tiểu Bang miền Tây Bắc
Hoa Kỳ, có thể có được cành Đào ngày Tết tương đối dễ dàng, và có thể trồng đào
vừa lấy quả và cành cắm theo phương thức sau :
Đào ưa khí hậu lạnh, mát và ẩm
nhưng không được úng nước, nên chọn chỗ đất trồng vừa ẩm vừa cao ráo, dễ thoát
nước. Trồng bằng cây ghép dễ hơn từ hạt, có thể mua thắng cây từ nhà vườn.
Muốn có cành Đào nở đúng
ngày Tết : nên cắt cành ngay khi cây bắt đầu ra chồi non, lần đầu cắt thật nhiều
để cây đâm ra thêm nhiều cành. Sau đó mỗi tháng cắt tỉa một lần (tỉa nhẹ, bỏ
các cành yếu). Đào sẽ có hình dáng khá đẹp sau khoảng 6 lần tỉa. Muốn cây trổ
hoa đúng dịp xuân về, dùng dao thật sắc cắt bỏ 1 vòng vỏ nơi gần gốc thân : Lá
cây sẽ chuyển từ màu xanh đậm sang xanh nhạt và hơi rũ xuống. (Nếu lá vẫn giữ
màu xanh đậm, cần cắt bỏ thêm 1 vòng vỏ ở cao hơn, gọi là 'thiến đào). Nên thiến
đào vào khoảng tháng 10 (October), và sau đó tuốt lá để thúc cây ra nụ..(thời
gian tuốt lá tùy thuộc thời tiết, thường trong khoảng cuối tháng 12 (December).
Khi gần đến ngày nụ hoa nhú to, có thể phải hãm bớt bằng cách che bớt ánh sáng,
ngưng tưới hay cắt bớt rễ và cắt bỏ vỏ quanh thân đễ làm hoa chậm nở..
(Tại Oregon và Washington,
nên chọn các loại Springgold, Elberta chịu được nhiệt độ lạnh khá tốt )
Đặc tính dược học
:
Các bộ phận của Đào có chứa
những hoạt chất khác nhau :
■ Lá : chứa glucosides khi thủy giải cho hydrocyanic acid
(Amygdalin), Tanin , Coumadin., phloretin
■ Hoa : chúa glucosides, trifolin, coumarins, flavonoids..
■ Quả :
- phần thịt của quả có các sắc tố như lycopen, carotenoids,
criptoxanthin, Zeaxanthin, đường hữu cô, acid hữu cơ (tartric, malic..,
chlorogenic).
- Hạt chứa chất béo (50%), amygdalin,
tinh dầu dễ bay hoi, prussic acid, choline, acetylcholine..
Một số bộ phận của cây Đào
được dùng trong Dược học Tây Phưong như dầu ép từ nhân hạt (peach kernel oil),
vỏ cây, lá cây và hạt.. Một số thành phẩm được bán dưới các tên thưong mại như Laetrile,
Vitamin B17..
■ Dầu ép từ nhân được dùng làm dầu dược dụng, có hoạt tính
kháng nấm khi thử in vitro (Hindustan Antibiotic Bulletin Số 32-1990).
■ Một số bộ phận của cây như vỏ, lá..đưọc ghi nhận là kích
thích đường tiêu hóa.
■ Phloretin, trích từ vỏ và lá có hoạt tính kháng sinh chống
lại các vi khuẩn gram dưong và gram âm.
■ Laetrile hay Amygdalin hay Vitamin B17..đã từng
được quảng cáo là có các hoạt tính ngừa và trị ung thư. Tuy nhiên các nghiên cứu
thực hiện tại National Cancer Institute đã không chựng minh được
tác dụng này (New England Journal of Medicine Số 306-1982) và FDA đã cấm sử dụng
Laetrile vì có thể gây ngô đôc do cyanide..
■ Vỏ, lá, hoa và hạt Đào đều
có thể gây ngộ độc: Một hạch quả
(pit) chứa khoảng 2.6 mg hydrocyanic acid cho mổi gram hạt. Liều hydrocyanic
acid gây tử vong cho người lớn là 50-60 mg, tưong ứng với chừng 20 gram hạch
nhân
Giá trị dinh dưỡng :
100 gram phần thịt ăn được (quả tưoi) chứa :
100 gram phần thịt ăn được (quả tưoi) chứa :
Đ
ào
|
Nectarine
|
|
Calories
|
43
|
49
|
Ch ất đ ạm
|
0.70g
|
0.94g
|
Ch ất b éo
|
0.09g
|
0.49g
|
Ch ất s ơ
|
0.64g
|
0.40g
|
Calcium
|
5mg
|
5mg
|
S ắt
|
0.11mg
|
0.15mg
|
Magnesium
|
7mg
|
8mg
|
Ph osphorus
|
12mg
|
16mg
|
Potassium
|
197mg
|
212mg
|
K ẽm
|
0.140mg
|
0.090mg
|
Đ ồng
|
0.068mg
|
0.073mg
|
Mamanganese
|
0.047mg
|
0.044mg
|
Beta-C arotene
(A)
|
535
IU
|
736
IU
|
Thiamine (B1)
|
0.017mg
|
0.017mg
|
Riboflavine
(B2)
|
0.041mg
|
0.041mg
|
Niacin (B3)
|
0.990mg
|
0.990
mg
|
Pantothenic
acid
|
0.170mg
|
0.158mg
|
Pyridoxine
|
0.018mg
|
0.025mg
|
Folic acid
|
3.4mcg
|
3.7mcg
|
Vitamin C
|
6.6mg
|
5.4mg
|
về phương diện dinh dưỡng,
tuy không phải là loại trái cây giúp trường sinh như trong truyện Tàu, nhưng
Đào và Nectarine được xem là các thực phẩm giúp lợi tiểu, long đờm, nhuận trường,
giúp làm dịu đau. Đào rất dễ tiêu hóa, và gây phản ứng kiềm mạnh cho cơ thể,
kích thích sự bài tiết các dịch tiêu hóa, giúp làm đẹp làn da, tăng vẻ rực rỡ
cho da. Do hai tác dụng lợi tiểu cùng nhuận trường, Đào giúp loại trừđộc chất
khỏi cơ thể nhất là khi thận và bàng quang suy yếu. Đào cung cấp lượng calories
tương đối thấp, chứa lượng nước cao hơn táo, lê..nên có thể là trái cây giải
khát lý tưởng .
Ngoải vai trò thực phẩm, Đào
còn được dùng làm mỹ phẩm nuôi da rất tốt. Có thể dùng công thức nuôi da sau
đây :
■ Dùng
hỗn hợp các trái tươi gồm Đào, Đu đủ, Chuối và Avocado, mỗi thứ 50 gram,
■ Trộn trong máy blender
thành một khối nhão vừa đủ, đắp lên da mặt (như facial mask) ,
■ Giữ trong 30 phút, rồi rửa sạch bằng nước ấm
■ Sau đó dùng dầu hướng
dương thoa nhẹ đều trên mặt đễ giúp da mặt giữ được vẻ tươi mát..
Khoa dinh dưỡng mới tại
Trung Hoa dùng đào tươi để giúp trị một số bệnh như :
■ Trị ho, ho do suyễn, do tạng
phủ suy nhược : Dùng 3 quả đào tươi, bỏ vỏ , thêm 30 gram đường. Thêm nước và nấu
trong bình kín. Ăn (bỏ hột) mỗi ngày.
■ Trị đau do hernia : Dùng
30 gram đào còn xanh và 1 quả xoài tươi. Nấu với nước vừa đủ đến chín. Ăn ngày
2 lần : sáng và chiều.
■ Trị Hoạt tinh (Xuất tinh bất
thường), Đổ mồ hôi đêm : Dùng 30 gram đào xanh đã phơi khô, sao đến khi khô.
Thêm nước và 30 gram Táo tàu. Hấp cách thủy đến chín. Ăn mỗi ngày trước khi đi
ngủ..
■ Trị Huyết áp cao : Dùng
1-2 quả đào tưoi, bỏ vỏ, bỏ hột, ăn mỗi ngày sáng và chiều; đồng thời dùng 30
gram đào xanh đã phoi khô, nấu nước uống thay nước trà..
■ (Đào xanh phoi khô, được
thu hái khi quả còn non, bỏ hột và phoi dướí nắng đến khi khô hắn)
Đào trong Dược học
cổ truyền :
Dược học cổ truyền Trung Hoa
dùng hạch quả, đập vỡ bỏ vỏ lấy hạt, thường gọi là nhân để làm thuốc. Vị thuốc
được gọi là Đào Nhân (tao-ren)
Đào Nhân được chép trong 'Thần
nông bàn thảo kinh' dưới tên Đào- hạch nhân =Tao-ho-jen và xếp vào loại dược liệu
hạng thấp. Sau đó Lý thời Trân đã chép lại trong Bản thảo cưong mục. (Nhật dược,
Kempo gọi là tònin)
Đào Nhân được xem là có vị đắng,
tính bình, có tác dụng 'phá huyết ứ', 'khử tích trệ', nhuận táo, hoạt trường, lọi
tiểu và tác động vào các kinh mạch thuộc Tâm, Can, Phế, Đại trường..
Do hoạt tính phá được huyết ứ,
Đào Nhân là một vị thuốc quan trọng để trị các chứng bệnh liên hệ đến huyết tụ
như rối loạn về kinh nguyệt, đau bụng dưới, đau do chấn thưong, đau ngang sườn.
. tụ huyết nôi phổi vả đau bụng nổi cục hòn.. Thường được phối họp với Hồng hoa
(hong- hua= Flos Carthami Tinctorii) để trị bế kinh và bặt kinh kèm theo đau bụng
; phối họp với Đưong quy (Dang-gui = Radix Angelicae Sinensis) và Xích thược
(Chi Shao=Radix Paeoniae Rubreae) để trị đau nhức do chấn thưong.. Dùng chung với
Đại hoàng (da-huang = Radix et Rhizoma Rhei) và Mang tiêu
(Mang-xiao=Mirabilitum) để trị sưng ruột..
Do tính nhuận táo nên dùng đễ
trị các chứng bón uất..
Cây Anh Đào :
Đào Nhật
Bên cạnh cây Đào cho quả, đã
trình bày., tại Việt Nam còn có cây Anh Đào hay đúng hôn Đào Đà lạt, cũng cho
hoa khá đẹp vào dịp Tết. Anh Đào thường được xem là biễu tượng cho nước Nhật ,
và hoa Anh Đào Nhật ngày nay đã được lai tạo để cho hoa rất đẹp cũng nở đúng
lúc xuân về..
■ Anh Đào Đà lạt :
Tên khoa học : Prunus
cerasoides
Cây Anh Đào P. cerasoides có
nguồn gốc từ vùng Hymalaya, Tây tạng sau đó phân bố xuống Trung Hoa, Nhật, Triều
Tiên..cũng gặp tại các vùng núi cao Bắc Việt Nam và được trồng tại Đà lạt..
Anh Đào thuộc loại tiểu mộc,
cao 5-10 m; thân có vỏ màu xám, phân cành, nhánh nhiều, dài và thắng, nhẵn. Lá
nhỏ, mềm, hình trái xoan hay ngọn giáo, hoi hẹp về phía gốc, mũi ngọn, mép lá
răng cưa dài 5-12 cm, rộng 2.5-5 cm, cuống lá nhỏ và nhẵn. Hoa màu hồng đỏ hay
hơi trắng , cánh đài họp thành ống hẹp. Tràng hoa dạng bàu dục thuôn. Hoa trổ
trước khi có lá. Hoa mọc thành cụm gần như dạng tán, thường mọc chung 3 hoa. Quả
thuộc loại hạch quả, hình cầu đường kính 10-12mm màu đỏ.
Anh Đào ra hoa vào tháng 12
hay tháng Giêng và có quả từ tháng 2
■ Anh Đào Nhật hay Anh Đào
đôi
Tên khoa học Prunus
lannesiana
Nguồn gốc từ Nhật, được trồng
nhiều tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới để làm cây cảnh.
Cây cũng thuộc loại tiểu mộc,
cao 4-6m, cành nhánh dài, nhẵn màu nâu đen. Lá thuôn dài có đầu nhọn, mép lá
khía răng cưa nhỏ, đều, màu xanh nhạt. Hoa mọc trên các cành già, có thể mọc đốn
độc hay thành từng đôi; hoa lớn cỡ 3-4 cm, màu đỏ hồng có hưong thom..Đài hoa
có lông mịn..
Ngoài ra còn có 1 chủng cho
hoa màu trắng, rất thom (P. lannensiana form. donarium).
■ Anh Đào Nhật tại Vùng Tây
Bắc Hoa Kỳ :
Tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, các
nhà vườn đã du nhập một số loài Anh Đào Nhật, biến đổi để cây chỉ trổ hoa và
không kết quả nhằm mục đích cho hoa làm cảnh. Các cây đào này được gọi chung là
Japanese Flowering Cherry, có tên khoa học Prunus serrulata.
Prunus serrulata được cải biến
để tạo ra nhiều loại Đào từ mọc bình thường đến mọc thành tán, mọc rũ, và mọc
thành cột..
Đào Nhật mọc thẳng bình thường gồm:
- Prunus 'Accolade' : Hoa
kép, màu hồng nhạt, cây cao đến 8m
- Prunus s. 'Kwanzan' : Hoa
kép màu hồng đậm, cao đến 10m, tán rộng 6m.
- Prunus
s. 'Shirofuaen' : Hoa kép, bắt đầu màu hồng rồi phai dần về trắng, hoa xuất
hiện cùng một lúc với lá màu đồng đỏ. Cao chừng 10m.
- Px
yedoensis (Yoshino Cherry) : Đây là loại Đào nổi tiếng, trồng trong vùng
Tidal Basin tại Washington DC. Hoa đơn, lớn màu hồng nhạt. Cây cao đến 10-15 m.
tán rộng đến 10m.
Đào Nhật mọc rũ
gồm :
- Prunus s 'Snow Fountain' :
Hoa trắng, đơn; cành mọc rũ
- Px s.'Yae-shidare-higan': Hoa kép, hồng lợt.
Đào Nhật mọc thành tán :
- Prunus serrulata
'Shirotae' : Giống đào nổi tiếng 'Mt Fuji', mọc thành dạng chiếc ô ngược.
Hoa trắng rất thơm, nở từ nụ màu hồng, sau đó chuyển sang màu hồng đỏ. Đến mùa
Thu, lá đổi sang màu vàng rồi đỏ cam. Mọc cao đến 7m, tán rộng đến 12-15 m..
Đào mọc thành trụ :
- Prunus
serrulata 'Amanogawa' (Đào Ngân hà) : Hoa màu hồng nhạt, mọc cao đến 8-14 m
chỉ rộng chừng 1m thành cột thằng khá đẹp..
■ Dược tính của Anh Đào :
Nhật dược dùng vỏ Anh-đào
làm thuốc với tên gọi Ouhi. Ouhi không được dùng tại Trung Hoa. Dược liệu
được lấy từ các cây :
Prunus jamasakura; Prunus yedoenisis
Ouhi được xem có những hoạt
tính trị ho và long đờm.
Thành phần hóa học cũa vỏ gồm :
- P.
jamarsakura : Eriodyctylol, Narangenin, Genkwanin, Glucogen kwanin,
Sakuranetin, Sakuranin..
- P.
yedoenisis : Phloridzin, Sakuranin, Tannins.
Tại Việt Nam, quả Anh Đào Đà
lạt được dùng làm thực phẩm và chế biến thành rượu Anh Đào.
Tài liệu sử dụng
:
■ Taylor's
Guide to Fruits and Berries
■ The Oxford Encyclopedia of
Food and Drink in America (Smith)
■ Whole Foods Companion
(Dianne Onstad)
■ Fruits as Medicine (Dai
Yin-fang & Liu Cheng-jun)
■ Thuốc Nam trên Đất Mỹ (tập 3)
■ Tạp chí Sunset (January
2005)
0 comments:
Post a Comment