Mẫu đơn (Peony) là một
cây hoa thường bị nhiều người nhầm với Thược dược (Dahlia). Thật ra đây là hai
cây hoa riêng biệt thuộc hai họ thực vật khác hằn nhau. Sự nhầm lẫn là do tên gọi
bằng tiếng Hán của Mẫu đơn : Mẫu đơn hay Mudan cung cấp những dược liêu Bach thươc
(Bai-shao) và Xích thươc (Chi shao),
do đó tại Trung Hoa, cây còn được gọi là Shao-yao, để bị phiên âm
thành..Thươc dược.
As
quickly as white milk with rennet thickens
likewise the blood in the wounds of Ares
became, Because of Paeon's herbs.
likewise the blood in the wounds of Ares
became, Because of Paeon's herbs.
(HOMER)
'Cứphép
gia hình, ba cây chập lại một cành Mau đơn'
(Kiều)
Cây hoa Mẫu đơn với vẻ đẹp quý phái, thuộc một gia đình
hoa gồm 33
loài khác nhau, nguồn gốc tại Âu châu, Trung Hoa và Bắc Mỹ. Mau đơn là một cây
hoa rất được ưa chuộng, trồng khá phổ
biến tại khắp các vườn hoa trên thế
giới nhất là Trung Hoa.
Tông Paeonia có thể phân loại thành 2 nhóm:
- Mẫu đơn mộc (tree peony), phần lớn phát xuất từ P. suffruticosa
- Mẫu đơn bụi (herbaceous peony), từ P. lactiflora
Tên M ẫu đơn= Peony xuất
phát từ Paeon, Thầy thuốc của các vị Thần trong Thần thoại Hy Lạp, và là vị
Thần chữa bệnh. Nữ thần Leto, mẹ của Thần Apollo đã tặng cho Paeon cây hoa mẫu
đơn trồng tại Núi Olympus và Ông đã dùng mẫu đơn để trị vết thương cho Diêm
vương Pluto và cho Thần Chiến tranh Ares ..như Homer đã ghi lại trong tác phẩm
Iliad. Tài chữa bệnh của Paeon đã gây ra sự ganh tỵ của Aesculapius (Thần Y
khoa, vốn là sư phụ của Paeon). Aesculapius tìm cách giết Paeon, và Pluto đã
cứu Paeon bằng cách biến ông ta..thành cây Mau đơn..
Người Hy lạp xem M ẫu đơn như một cây
hoa 'thiêng liêng', có năng lực ngừa được ma quỉ.. Tại nhiều vùng Âu châu, hạt
Mau đơn được thu nhặt và kết lại với nhau thành vòng hạt đeo trên cổ để trừ ma
quỉ. Rễ phơi khô và khắc thành bùa trừ ma..và sau đó được mài, gọt thành hạt
tròn để làm tràng hạt trong Thiên chúa giáo..
Mẫu đơn đã được trồng làm cây cảnh tại Trung Hoa từ khoảng năm 900
trước Tây lịch. Truyền thuyết về Mau đơn cũng có nhiều điều lý thú..Trong đời
nhà Đường, Nữ hoàng Võ Tắc Thiên đã ra lệnh cho mọi loài hoa..phải nở cùng một
ngày..và ngày đó đang trong mùa Đông băng giá. Hôm sau, mọi loài hoa đều nở,
ngoại trừ Mẫu đơn khiến Nữ hoàng nổi giận, và ra lệnh..phạt M ẫu đơn, đuổi hoa ra khỏi Trường An, đầy về Giang
Nam (do đó Mau đơn còn có tên là Giang nam hoa..)
Tại Bắc Kinh, nơi Công viên Trung Sơn có trồng rất nhiều giống Mẫu đơn
quý và nổi tiếng như Bạch du (bai-yu) (hoa trắng); Ngụy tử (wei-zi (hoa tím);
Diêu hoàng (Yao-huang) (hoa vàng nhạt).. và hàng năm cứ đến độ Xuân về, người
Bắc Kinh rủ nhau đến Trung Sơn để thưởng ngoạn M ẫu đơn (trong Chinh phụ ngâm có các câu ' xẩy nhớ
khi cành Diêu đóa Ngụy ; trước gió xuân vàng tía sánh nhau' để ghi nhận sự kiên
họ Diêu tìm được giống mẫu đơn vàng = Diêu hoàng, và họ Ngụy tìm được Ngụy tử
là giống mẫu đơn hoa tím..)
Mẫu đơn được đưa từ Siberia vào Âu châu vào khoảng năm 1558. Nhà thực
vật gốc Đức, Peter Simon Pallas (1741-1811), người nghiên cứu nhiều về thực vật
tại Nga, đã mô tả loài P. lactiflora lần đầu tiên vào năm 1776. Đến 1805,
P.lactiflora đã do Sir Joseph Banks đem đến Anh Quốc và sau đó với nhiều giống
du nhập từ phương Đông, M ẫu đơn đã trở thành cây hoa
rất được ưa chuộng vào giữa thế kỷ 19.. Tại Hoa Kỳ, M ẫu đơn đã được trồng tại
Virginia từ 1771..
Mẫu đơn đã từ Trung Hoa đến Triều Tiên và
Nhật vào khoảng thế kỷ 6- 8, và tại Nhật do các kỹ thuật gây giống rất thận
trọng, loài Mau đơn mộc tại Nhật đã thay đổi khác hắn loài gốc từ Trung Hoa
(hoa có nhiều mầu sắc hơn và chịu đựng thời tiết mạnh hơn)
Đặc tính thực vật :
Ngoài
2 loại chính P. lactiflora và P. suffuticosa còn có những loại khác tương đô'i
quan trọng v'ê phương diên dược học như P. officinalis.. hay vê phương diên cây
làm cảnh như P. emodi, P.mlokosewitschii..
Trước đây Paeonia được xếp vào họ thực vật Ranunculaceae, nhưng nay tự có
một họ riêng : Paeoniaceae..
1- Paeonia
suffruticosa :
Còn gọi là Tree peony, Moutan peony
Cây
thuộc loại thân thảo, lưu niên, sống lâu phát triển thành bụi cao đến 2m. Thân mịn không lông. Rễ phát triển thành củ. Lá kép hai lần, mặt trên xanh đậm, mặt dưới trắng nhạt. Hoa khá lớn, đường
kính 15-20 cm, mọc ở ngọn các cành nhánh, có mùi thom, thường mọc thành đôi. Hoa có nhiều cánh màu trắng, đỏ tía
hay vàng. Nhị vàng, khá nhìều. Quả
loại đại. Cây trổ hoa vào các tháng 5-7, kết quả trong các tháng 7-8..
Các chủng cultivars được ưa chuộng tại Hoa kỳ như'Alice
Harding' (cây lùn, hoa vàng-chanh); 'Anna Marie' (hoa màu tím nhạt, chịu đựng tốt);
'Black Panther' (hoa đỏ xạm, lá đẹp) ; 'Chinese Dragon' (hoa thom, màu đỏ dâu,
lá có ánh nâu đồng), 'Gauguin' (hoa có màu sắc pha trộn)..
2- Paeonia lactiflora = P. albiflora :
Các
tên khác : Bạch thược (hay bị gọi..nhầm
là Thược dưọc=Dahlia)
-
Chinese peony, Common garden peony
Cây loại thảo, lưu niên, cao
50-80 cm. Thân mịn, không nhám. Lá mọc so le chụm từng đôi hay chụm ba, chia từng
đoạn không đều. Lá hình trái soan hay mũi giáo, dài 8-12 cm, rộng 2-4 cm. mặt
trên xanh bóng. Phiến lá có thể nguyên không răng hay xẻ thùy nối mép. Hoa rất
lớn, mọc đốn độc, thom mùi hoa hồng. Trên mỗi thân mang hoa, có 1-7 hoa, rộng
1012 cm. Đài hoa có 6 phiến, các cánh hoa xếp trên một hoặc hai dây, trước khi
nở mảu hồng, rồi chuyển dần sang trắng.. Quả có 3-5 lá noãn..
Trên thực tế có đến hàng
trăm chủng trồng (cultivars), phát xuất từ P. lactiflora..
Những nhà 'choi hoa' peony
có những cách phân loại hoa..khác thường
- Japanese peonies : Hoa có nhiều cánh, mọc
quanh thành 1-2 hàng, ỡ giữa là chùm nhị có thể vàng, đỏ hay hồng..Cultivars đẹp
nhất là 'Sun Glory' có mùi thom, cánh hồng nhạt nở quanh chùm tua nhị vàng..
- Bomb peonies : Hoa có nhiều cánh hoa tạo nhiều hàng quanh chùm nhị,
chụm lại như dạng pom-pom. Cultivars nổi tiếng nhất là 'Bridal Shower', cánh
hoa trắng, nhị phốn phớt vàng..
- Các dạng khác như Anemone, Crown-type..
3- Paeonia officinalis :
Các tên gọi khác : European
peony, Piney (Anh), Pivoine (Pháp)..
Đây là giống Mau đốn, đặc
trưng của Âu châu, được xem là dược thảo do người Hy lạp sử dụng từ thời xa
xưa.
Cây mọc cao đến 60 cm, Rễ phình
thành củ; Lá màu xanh bóng, sẻ thành nhiều thùy; Hoa mọc đốn độc, màu đỏ thắm,
giống như hoa hồng, lớn chừng 10 cm đường kính, có từ 5 đến cánh, và nhiều nhị
vàng
Các loài phụ như humilis có
hoa màu thay đổi từ hồng nhạt đến đỏ.
Các nhà vườn lai tạo thành
nhiều cultivars, rất được ưa chuộng để trồng làm cây cảnh như :
- 'Alba Plena' hoa kép, màu trắng..
- 'Rosea Plena' hoa kép, màu hồng..
- 'Rubra Plena', hoa kép,
màu đỏ thắm..
4- Paeonia emodi :
Nguồn
gốc từẤn độ, mọc cao đến 1m. Hoa đon độc, màu trắng..
Thành
phần hóa học :
- P. lactiflora :
Rễ củ
chứa :
- Các họp chất loại monoterpene
glycoside như Paeoniflorin (có thể đến
5.8%) , oxypaeoniflorin, benzoylpaeoniflorin, albiflorin, albiflo rin R1,
paeonolide..
- Tinh bột
- Tannins (0.4%),
Gallic acid, HỌp chất pentagalloyl-glucose, decagal loyl-glucose
- Tinh dầu..
- Các khoáng chất như Calcium
(0.4%), Potassium (0.07%), Đồng (6ppm), Sắt (47ppm), Magnesium (990ppm),
Mamganese , Sodium, Kẽm (24ppm)
Hoa chưa Beta-glucogallin, glucogallin, beta-sitosterol,
paeonidin, kaempferol, pentacosan..
Lá chứa nhiều
flavonoids như kaempferol,
quercetin, quercimeritrin..
-
P. suffruticosa :
Vó rễ
chứa paeonolide (=paeonol glucose-arabinose), paenoside (= paeo nol-glucosise),
paeonol, paeoniflorin, oxypaeoniflorin, galloyl- paeoniflo rin, các
suffruticosides A,B,C,D và E ; Acid hữu cố như benzoic acid, Phytosterols như beta-sitosterol, campesterol; glucoside..; Khoáng
chất như Calcium (0.17%), Đồng, Sắt,
Potassium (0.06%), Manganese, Magnesium..; Tannins
Hoa có
Apigenin-7-glucoside; Apigenin-7-rhamnoglucoside;
Kaempferol
3,7 diglucoside ; Kampferol-3-beta-glucoside
- P. officinalis :
Hoa chưa các sắc
tố anthocyanin, đặc biệt nhất
là paeonin (=paeonidin-3, 5-diglucoside; các flavonoids như kaempferol; tannins (loại gallotannins cũng gặp
trong lá và rễ)
Rễ chứa
các monoterpenes, nhiều nhất là monoterpene ester glucosides loại pinane , như paeoniflorine (1.5 đến 3.5 %) ; tannins..; acid hữu
cơ như benzoic acid, metarabinic
acid..
Hat có
arabinic acid, paeonibrown, pectin, peregrinine, resinic acid
Mẫu
đơn trong Dược học Tây Phương
Ngay từ thời
Dioscorides và Theophrastus, mẫu đơn đã đươc
dùng để trừ ác mộng, trị cuồng
động (hysteria) và trị đau vùng tử
cung. Rễ khô được cho sản phụ dùng
ngay sau khi sanh để giúp đẩy nhau ra và chóng phục hồi. Culpeper khuyên dùng rễ tươi để
trị kinh phong và hạt để giúp tẩy uế
sản phụ..Culpeper phân biệt 2 loại : peony đực, hoa màu đỏ-tím, lá không sẻ, hạt
đen và nâu xạm; và peony cái, hoa đỏ đậm, thơm, hạt đen..
Dược học Tây Phương sử dụng hoa P. officinalis làm thuốc (Paeoniae flos). Hoa phơi khô nhanh, cần giữđược màu đỏ. Vị thuốc được
ghi trong DAC (German Drug Codex Supplement to the Pharmacopoeia).
- Hoa thường chỉ dùng
trong các phương thuốc dân gian để trị 'kinh phong', gout và những rối
loạn tiêu hóa.
- Trong khoa Homeopathy, dược liệu
được dùng trị các vết
nứt nơi hậu môn, trĩ, sa tĩnh mạch. nhức đầu, đau quặn thắt nơi bụng kèm theo run rẩy và lo sợ. Vị thuốc được
gọi là paeonia, bào chế từ rễ tươi.
- Theo German Commission E (Banz no.85,
published May 5, 1998) :
Hoa
dùng trị các bệnh ngoài da và màng nhầy, vết nứt liên quan với trĩ, gout, thấp khớp, và các bệnh về hô hấp. Rễ
dùng trị co-giật liên hệ đến đường tiêu hóa, bệnh thần kinh..
Các
nghiên cứu khoa học về Paeonia :
- Các thử nghiệm
trên thú vật ghi nhận hoa và rễ. P. officinalis có tác dụng gây co thắt cơ trơn tử cung khá mạnh, làm giảm độ cường
cơ ruột, bao tử và gây hạ huyết áp. Tác dụng chỉ thống và chống
co giật không được chứng
minh rõ rệt ( PDR for Herbal
Medicines 3rd Ed.)
Theo Dan Bensky, các nghiên cứu dược
lực học trên P.suffruticosa ghi nhận :
- Tác dụng kháng sinh : dịch chiết
từ Vỏ P. suffruticosa có hoạt tính ức chế 'in vitro' chống các vi khuẩn gây bệnh như
Staphylococcus aureus, Bacillus subtilis, và Salmonella typhi..
- Tác dụng trên Hệ tim-mạch : Khi chích qua tĩnh mạch dịch chiết vỏ
P. suffuticosa bằng nước cho chó, mèo và chuột thử nghiệm đã bị gây mê: huyết
áp giảm hạ, cả hai họp chất có và không có paeonol đều có tác dụng này. Khi cho
chó và chuột, đã bị gây huyết áp cao, uống nước trích, huyết áp giảm hạ dần dần.
Paeonol gây giảm phù chân nối chuột và cũng làm giảm độ thẩm thấu vì mạch.
Cũng theo Dan Bensky, P
lactiflora có các hoạt tính sinh học :
- Tác dụng trên cơ trơn : Nơi thỏ , liều tương đối
cao mới gây được phản ứng chống co giật, và Paeoniflorin là chất có tác động mạnh
nhất trên ruột của chuột và bọ thử nghiệm. Paeoniflorin củng có tác động đối
nghịch với oxytocin trong hoạt tính trên cơ tử cung.
- Tác động nơi hệ tim mạch : Paeoniflorin gây hạ huyết áp nơi bọ ,
tác động này tùy thuộc vào liều sử dụng; paeoniflorin gây gia tăng lưu lượng
máu qua động mạch vành khi thử trên chó, hoạt tính này yếu hơn nitroglycerin.
- Hoạt tính chống sưng : Paeoniflorin có tác động chống sưng nhẹ và
có chức năng bào vệ chống ung loét gây ra do stress nơi chuột bạch. Tuy nhiên,
paeoniflorin lại gây tăng bài tiết acid nơi bao tử và giúp ăn ngon miệng.
- Dịch chiết P. rubrae có hoạt tính kháng sinh 'in vitro' khá mạnh chống
lại các vi khuẩn Shigella sonnei, S. aureus, Siêu vi herpes zoster và
A , một số nấm gây bệnh.
Theo Kerry Bone (Clinical
Applications of Ayurvedic and Chinese Herbs) Paeoniflorin và các chất dẫn xuất
có những hoạt tính dược học :
- Cải thiện Nhận thức và Chong co-giật: Khi cho chuột dùng liều uống
1mg/kg paeoniflorin, khả năng tìm đường qua các 'mê lộ' của chuột bị cho uống
scopolamine, được cài thiện, hoạt tính này có lẽ do ở tác động vào hệ
alpha-1-adrenergic. Liều rất nhỏ 0.01 mg/kg giúp cài thiện nhận thức nơi chuột
đã lão hóa. Albiflorin, pentagalloylglucose và dịch chiết Paeonia bằng nước,
khi cho uống, đều ức chế tác động gây co giật của pentylenetetrazole nơi chuột.
- Hoạt tính trên Chức năng của kích thích tô' loại Steroid :
Paeonoflorin kết nối rất ít
vào các thụ thể estrogen và androgen, không kết nối vào thụ thể progesterone.
Paeniflorin gây giảm sản xuất testosterone nơi buồng trứng chuột, do can thiệp
vào tiến trình tổng hợp testosterone.
- Thử nghiệm lâm sàng về Hoạt tính cùa Peonia :
Paeonia
và Cam thảo đã được
dùng phối hợp để trị
các chứng bế kinh và bắt kinh nơi
phụ nữ tại Nhật và Trung Hoa :
- Tám phụ nữ hiếm muộn, kinh nguyệt hiếm, androgen quá cao đã được
thử nghiệm cho dùng hỗn hợp
paeonia/cam thảo để làm giảm nồng độ
testosterone trong máu, gây rụng trứng..Kết
quả ghi nhận 7 bệnh nhân có mức testosterone về mức bình thướng, 6 bệnh nhân có trứng rụng..và 2 trong 6 người sau đó
đã thụ thai (Acta O/B Japan
Sô' 34-1982).
- 34 phụ nữ Nhật bị các triệu chứng
'polycistic ovary syndrome'
(PCOS)
đã được điều
trị bằng hỗn hợp Paeonia/Cam thảo : 7.5 mg/ ngày trong 24 tuần :Nồng
độ testosterone trong máu và
testosterone tự do giảm sụt rõ rệt sau 4 tuần. Tuy nhiên sau 12 tuần, lượng testosterone chỉ xuống
thấp nơi các bệnh
nhân đã thụ thai. Sau 24 tuần, tỷ lệ
LH/FSH củng giảm hạ nơi nhóm uống thuốc (International Journal of
Fertility Menopausal studies So 39-1994)
Các
nghiên cứu khác :
- Nghiên cứu tại Đại Học Y Khoa
Đài Chung (Taiwan) ghi nhận Paeonol (trích từ vỏ P. suffruticosa và từ rễ P.
lactiflora) có các hoạt tính
giúp
giảm nghẽn mạch máu não và suy thoái thần kinh nơi chuột thử nghiệm do tác động
ngăn cản và thu nhặt các anion superoxide, ức chế sự kích khởi microglia nơi
chuột bị gây nghẽn mạch (Journal of Ethnopharmacology So Feb-2006)
- Nghiên cứu tại Đại học Y Khoa
An Huy (Trung Hoa) ghi nhận các glucosides tổng cộng trích từ P. lactiflora có hoạt tính chặn được
sưng xương khớp
loại adjuvant arthritis nơi chuột và can thiệp vào tiến trình hoạt động của các cytokine trong các chứng bệnh sưng
dịch khớp xương (International Immunopharmacology Sô'
5-2005).
- Nghiên cứu tại Đại Học Ulsan (
Nam Triều tiên) ghi nhận Paeoni florin, chiết từ P. lactiflora bằng methanol,
có tác dụng làm hạ cholesterol tổng cộng, hạ LDL và Triglycerides (thử trên chuột)
khi cho dùng nồng độ 200 và 400 mg/ kg mỗi ngày trong 4 tuần liên tiếp (Fitoterapia
So 12004).
-
Nghiên cứu tại Khoa hóa dược, Trường
Dược thuộc Đại Học Y Khoa Đài Bắc
(Taiwan) ghi nhận Paeoniflorin và 8-debenzoylpaeoniflorin trích từ rễ khô P.
lactiflora, gây hiệu ứng hạ đường
trong máu nơi chuột bị gây tiểu đường
bằng streptozocin. Hoạt tính này lên
cao nhất 25 phút sau khi cho dùng
thuốc. Nơi chuột bình thường, liều
1mg/ kg đã đủ gây hạ đường- huyết,
và nồng độ insulin trong plasma không thay đỔi..CƠ chế hoạt động của
paeoniflorin được cho là làm gia
tăng việc sử dụng glucose của cơ thể
(Planta Medica Sô' 63-1997).
- Hoạt
tính chống oxy-hóa : Thử nghiệm tại trường Dược, Đại Học Kangwon
(Korea) ghi nhận dịch chiết từ rễ P. lactiflora bằng ethanol có chức các hoạt
chất gồm cả gallic acid và methyl gallate có các tác động thu nhặt các gốc tự
do gây ra bởi DPPH (1,1-diphenyl-2-picryl hydrazine và có hiệu ứng ức chế
peroxyd hóa lipid, giúp bảo vệ chống lại các hư hại DNA của tế bào (Archives of Pharmacy Research So 28-2005)
*
Mau đơn trong Dược học cổ truyền Trung Hoa :
Dược học cổ truyền Trung Hoa
sử dụng Paeonia để làm thành những vị thuốc khác nhau :
- Paeonia
suffruticosa cung cãp vị Mau đơn bì (mu-dan-Di), ghi trong Chê' dược thư
của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa.
- Paeonia lactiflora cung cấp
các vị Bach thươc (bai-shao) và Xích thươc (chi-shao)
Mau đơn bì đã
được ghi chép trong cẩm Nang
Trân Châu của Trương Nguyên Tố (Zhang Yuan-Su) vào thời nhà
Kim (Thế kỷ 12). Các Danh Y cổ Trung Hoa như Ngô Phổ
Thục, Nhân Quyền (đời
Đường), Lý thời Trân, Cù hy Ưng (đời Minh) và Trương trọng Cảnh.. đều bàn luận
về các phương thức
sử dụng Mau đơn bì trong rất nhiều thang thuốc..
A- Ba ch thươc và Xích
thươc :
Cây
paeonia lactiflora thường được gọi là Thược dược =Shaoyao khi chưa
phân biệt thành Bạch thược hay Xích thược. Yao hay dược có nghĩa là vị thuốc và Shaoyao là vị thuốc làm từ cây Thược.
Cả 2 vị
thuốc Bạch thược và Xích thược đều được ghi trong Chế Dược thư của CHND Trung Hoa.
- Theo
Advanced Textbook on Traditional Chinese Medicine and Pharmacology (Tài liệu giảng
dậy về Đông dược chính thức của
Trung Quốc) thì Xích thươc là rễ
nguyên vẹn của cây còn giữ nguyên vỏ dày màu đỏ ; và Bach thươc là phần
rễ đã bóc vỏ . Cách chế Bạch thược được ghi chép như sau :'Rễ củ cũa những
cây từ 3-4 tuổi được
đào lên, thu hoạch trong mùa hè-thu,
rửa sạch, cắt bỏ các
rể nhõ, phần vỏ được
cạo sạch, nấu sơ trong nước
sôi, rồi phơi nắng..'
- Theo
Steven Foster &Yue ChongXi (Herbal Emissaries) thì Rễ cây P lactiflora nuôi trồng, sau khi cạo bỏ vỏ, được
gọi là Bạch thược. Rễ các cây P.
lactiflora và P. veitchii moc hoang , giữ nguyên vỏ được gọi là Xích
thược Bạch thược (Bai-shao)
Vị thuốc
đưọc thu hoạch vào mùa hè thu từ P. lactiflora, loại tốt nhất là cây trong vùng
Triết giang, An Huy, Tứ Xuyên.
Nhật dược (Kampo) gọi vị thuốc là byakushaku ; Triều tiên là paekchak.
Bạch
thược được xem là có vị đắng/chua ; tính 'hàn', tác động
vào kinh mạch thuộc Can và Tỳ.
Bạch
thược có những đặc
tính :
- Dưỡng huyết, điều hòa kinh nguyệt : Trị các chứng
'huyết nhược' như kinh nghuyệt không đều, huyết trắng, xuất huyết tử
cung. Đây là một trong những vị thuốc
chính để trị bệnh phụ khoa. Dùng phối họp với Đương Quy (Radix Angelicae Sinensis) và Sinh địa (Radix Rehmanniae
Glutinosae) để trị chóng mặt, mắt mờ, kinh nguyệt không đều liên hệ đến huyết
nhược và huyết ứ ; thêm Mạch môn
đông (Tuber Ophipogonis Japonici) để trị ù tai, mắt mờ, tê đầu ngón tay-chân,
co giật bắp thịt gây ra do Âm Can suy nhược..
- An 'Dương Can', làm giảm đau nhất là đau tức nơi ngực, cạnh sườn, nơi hông gây ra do Can Khí ứ tắc hay do mất quân
bình giữa Can và Tỳ. Nói chung, vị thuốc được dùng để 'An và Bổ Can',
làm ngưng các cơn đau thắt nơi bụng,trị đau nhức
co rút tay chân.. trị nhức đầu, chóng mặt do Dương thăng tại Can. Có thể phối
hợp với nhiều vị thuốc khác như Cúc
hoa, Cẩu đằng khi trị nhức đầu; hay phối hợp với
Hoàng cầm và Hoàng liên để trị kiết lỵ do Nhiệt-Thấp..
- Bảo toàn Âm và điều hòa Vinh-Vệ
: trị huyết trắng và bần tinh cùng các chứng suy nhược do Phong-Hàn ngoại nhập (phối hợp với Quế chi); dùng trị Âm suy do Dương thăng nơi biểu gây ra đổ mồ hôi đêm
Xích thược (Chi-shao)
Vị thuốc
có thể lấy từ Rễ Paeonia vieichii (trồng tại Tứ Xuyên, Vân Nam, Thanh Hải..)
hay P. lactiflora. Tại một số vùng tại Trung Hoa, có thể dùng rễ của P.
obovata. Vị thuốc thu hoạch vào mùa Xuân hay mùa Thu.
Nhật dược gọi là sekishaku ; Triều tiên : Chokchak.
Vị thuốc
được xem là có vị chua/đắng ; tính hàn nhẹ, tác động vào kinh mạch thuộc Can, Tỳ.
Xích
thược có những đặc
tính :
- Bổ huyết,
Phá huyết ứ : giúp trị các bệnh kinh nguyệt không đều, bặt kinh, đau bụng, có khối u nơi
bụng. Cũng giúp trị sưng
và đau do chấn thương, mụn nhọt sưng tấy gây đau nhức (dùng
chung với Xuyên Khung)
- Thanh Nhiệt và Lương
Huyết dùng trị các chứng
Nhiệt nhập vào Huyết gây sốt nóng, lưỡi đỏ, da
có đốm đỏ, xuất huyết..
- Thanh
Can-hỏa giúp trị mắt sưng, đỏ,
đau nhức..
B- Mẫu đơn bì:
Dược học cổ truyền Trung Hoa dùng vó cây Paeonia suffruticosa làm thuốc dưới tên Mau đơn bì (Mu-dan-pi).
Dược liệu được thu hoạch trong các tháng 10-11 từ các cây đã
được 35 năm. Loại tốt nhất là từ
các cây trồng hay mọc hoang tại an Huy, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Sơn Đông, Quế Châu..
Dược học Kampo Nhật gọi dược liệu
là botanpi và Triều Tiên gọi là moktanp'i.
Mẫu đơn bì được
xem là có vị cay/ đắng, tính hàn và tác động vào các kinh mạch thuộc Tâm, Can và Thận.
Mẫu
đơn bì có những đặc tính:
- 'Thanh Nhiệt' và 'Lương Huyết' : trị được các chứng
Nhiệt nhập vào huyết trong các bệnh ôn-nhiệt như chay
máu mũi, đờm có máu, thổ huyết và cả những
trường hợp kinh nguyệt quá nhiều do nhiệt-huyết
gây ra. Trong các trường hợp này Mau đơn bì được dùng chung với Xích thược.
- 'Thanh Hỏa' trong các chứng
'Suy nhược' như 'Âm suy' trong các bệnh Xương cốt sau khi nhiễm ôn-nhiệt mà không đổ mồ hôi
(dùng chung với Thanh hao=Artemisiae Annuae).
- 'BỔ Huyết', phá 'huyết ứ' : trong các chứng Huyết
ứ tại Can đưa đến bặt Kinh nguyệt , khối u nơi bụng..(dùng chung
với Táo nhân).
- Thanh được Hỏa thăng nơi Can gây các chứng nhức đầu, đau
mắt, đau ngang lưng, kinh nguyết ít..(dùng chung với Cúc hoa trong
các chứng đau mắt..)
- Trừ mủ, chống sưng
: Dùng ngoài da trị các chấn thương
gây sưng nhức, hay dùng trong để trị
sưng
ruột.. (dùng chung với Kim Ngân hoa và Liên kiều.)
Tài
liệu sử dụng :
■ Phytochemical and Ethnobotanical
Databases (J. Duke).
■ Herbal Emissaries (Steven Foster &
Yue ChongXi)
■ Chinese Herbal Medicine Materia Medica
(D. Bensky & A. Gamble)
■ Clinical Applications of Ayurvedic And
Chinese Herbs (Kerry Bone)
■ Garden Gate No 2
■ Encyclopedia
of Herbs (Deni Brown)
0 comments:
Post a Comment